[ Mục lục gốc ] Các lôi khu bảo vệ khác Ðất ngập nước Ðất ngập nước là một trong các hệ sinh thái dễ bị đe dô ở Việt Nam. Hệ sinh thái đất ngập nước cũng là nơi cư trú của nhiều loài động thực vật bị đe dô quan trọng của Việt Nam, đơn cử, 15 trong số 33 loài chim của Việt Nam bị đe dô ở mức độ toàn cầu là các loài phụ thuộc vào đất ngập nước. Ví dụ như Cò quắm cánh xanh (Pseudibis davisoni), Cò thìa (Platalea minor), Già đẫy nhỏ (Leptoptilos javanicus) và Ơ Tác (Houbaropsis bengalensis) v.v... Gần đây, Chính phủ đã ban hành chính sách khuyến khích khai thác và chuyển đổi đất nông nghiệp cho nhiều mục tiêu sử dụng khác. Ðó là Quyết định Số 773/TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 1994 về 'khai thác và sử dụng các vùng đất hoang hoá, vùng cửa sông, bãi bồi ven biển, và mặt nước ở các vùng đồng bằng và lưu vực', chính sách này đồng thời cũng khuyến khích nhiều hôt động chuyển đổi đất ngập nước thành đất nông nghiệp. Trong một số Khu Rừng Ðặc dụng, đất ngập nước đã được bảo vệ kết hợp với khu vực trên đất liền như: Vườn Quốc gia Tràm Chim, Vườn Quốc gia Ba Bể và các Khu Bảo tồn Thiên nhiên Xuân Thuỷ, Vồ Dơi, Thânh Phú và Ðất Mũi. Kế hôch hành động đa dâng sinh học của Việt Nam (1995) đã xác định 61 Khu đất ngập nước quan trọng và gần đây Cục Môi trường thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi Trường đã đưa ra một danh sách bao gồm 79 khu Ðất ngập nước có tầm quan trọng Quốc Gia (xem bảng 4). Bảng 4: Các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc gia
Nguồn: Cục Môi trường, Bộ KHCN&MT năm 2000 Ghi chú: * Khu có phiếu thông tin trong tài liệu này Khu Bảo vệ Biển Ða Dâng Sinh học Biển của Việt Nam Với khoảng 3.260 km bờ biển (không kể bờ biển của các đảo), nguồn tài nguyên biển và bờ biển là một tài sản quan trọng của Việt Nam. Tính đa dâng tài nguyên thiên nhiên biển đóng góp phần quan trọng cho nền kinh tế của Việt Nam thông qua việc cung cấp hải thuỷ sản (cá, các loài động vật không xương sống, rong biển, v.v...), năng lượng (dầu và khí đốt), các vật liệu thô (các nguồn khoáng). Ngoài ra, hƯ sinh thái biển còn có chức năng ngăn ngừa bão và phục vụ vui chới giải trí (Chính phủ CHXHCN Việt Nam/GEF 1994, ADB 1999). Các thông tin về đa dâng sinh học biển hiện chưa được biết đầy đủ, cho tới nay đã ghi nhận 11.000 loài sinh vật ở biển và ven biển (Nguyễn Chu Hồi et al. 2000). Tính đa dâng của các loài đã biết tăng lên từ bắc vào nam, sự phong phú củ các loài cá ở vùng biển gần bờ cao hơn các rân san hô xa bờ (Chou 2000). Tính đa dâng của san hô cứng của Việt Nam đã biết với 350 loài, so với số loài san hô cứng của In-đô-nê-xia 450 loài và Phi-líp-pin là 400 loài (Chou 2000). Nhiều loài rùa biển đang sử dụng vùng bờ biển của Việt Nam làm nơi đẻ trứng tuyền thống. Loài Bò biển (Dugong dugon) đang bị đe dô tuyệt chủng vẫn đang tồn tâi ở Vườn Quốc gia Côn Ðảo mặc dù số lượng quần thể nhỏ và đang suy giảm (Lê Xuân ái 1998, Võ Sĩ Tuấn 2000). Khu bảo vệ biển hiện nay Hiện nay, tình trâng quản lý và tổ chức các khu bảo vệ biển ở Việt Nam chưa rõ ràng (ADB 1999, Azimi et al. 2000). Tất cả các khu bảo vệ biển trong sách thông tin này đều là các khu bảo vệ biển đề xuất. Viện Hải dương học Hải Phòng đã đưa ra một danh sách 16 khu bảo vệ biển và đề nghị đưa vào hệ thống các Khu Bảo vệ biển quốc gia (Nguyễn Chu Hồi et al. 1998). Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam vừa mới xây dựng một chiến lược cho năm 2010 chính thức thành lập 15 khu bảo vệ biển (MOSTE/NEA 2000) (xem bảng 5). [
Mục lục gốc | Tiếp
theo ] |