[ Mục lục gốc ]

Giới thiệu về các khu bảo vệ

Năm 1978, Hiệp hội Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới (IUCN) đề xuất 10 loại Khu Bảo vệ. Năm 1992, Hội nghị Quốc tế lần thứ 4 của IUCN về các Vườn Quốc Gia và Khu Bảo vệ ở Caracas, Venezuela đã định nghĩa Khu Bảo vệ như sau:

Khu bảo vệ là một khu vực trên đất liền hoặc trên biển được sử dụng đặc biệt để bảo vệ và duy trì tính đa dạng sinh học và các tài nguyên thiên nhiên hoặc kết hợp với nuôi trồng và được quản lý bằng các biện pháp hợp lý và có hiệu quả.

Hội nghị cũng đề xuất 6 loại khu bảo vệ bao gồm:

(1) Khu bảo vệ nghiêm ngặt hay khu hoang dã (Strict Nature Reserve/Wilderness Area).

(2) Vườn Quốc gia (National Park)

(3) Kỳ quan Thiên nhiên (Nature Monument)

(4) Khu bảo vệ loài/sinh cảnh (Habitat/Species Management Area)

(5) Khu bảo vệ cảnh quan trên đất liền hay trên biển (Protected Landscape/Seascape)

(6) Khu bảo vệ tài nguyên được quản lý (Managed Resource Protected Area)

Trước năm 1988, Việt Nam mới chỉ có các Khu Bảo vệ trong phạm vi lâm nghiệp (được gọi là Khu Rừng cấm, sau đó đổi thành Khu Rừng đặc dụng). Sau khi nước ta tham gia Công ước Ramsar (năm 1988) có thêm Khu Ramsar. Năm 1995, "Kế hoạch hành động đa dạng sinh học Việt Nam" của Chính phủ đã chính thức đề cập đến một số loại Khu Bảo vệ khác. Ðồng thời việc khảo sát, xây dựng và quản lý các Khu Bảo vệ cũng được mở rộng sang một số Bộ, ngành ngoài lâm nghiệp.

  • Bộ Khoa học Công nghệ & Môi trường: chịu trách nhiệm về các Khu Bảo vệ đất ngập nước (Wetland Protected Area), Khu Dự trữ Sinh quyển (Biosphere Reserve) và Khu Ramsar (Ramsar site).

  • Bộ Thuỷ Sản: các Khu Bảo vệ Biển (Marine Park)

  • Bộ Văn hoá -Thông tin: các Khu Di sản thiên nhiên thế giới (World Heritage Sites)

Rừng đặc dụng

Rừng Ðặc dụng là một loại Khu Bảo vệ do ngành Lâm nghiệp xây dựng và quản lý. Năm 1962, Chính phủ Việt Nam ra Quyết định thành lập Khu Rừng cấm Cúc Phương (Khu Bảo vệ đầu tiên) đến nay lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam đã trải qua 40 năm và được chia làm 3 giai đoạn:

a. Giai đoạn từ 1962 đến 1975

Trong giai đoạn này ngành Lâm nghiệp đã phát hiện và đề xuất 49 Khu Rừng cấm ở các tỉnh phía Bắc. Tuy nhiên mới chỉ có một số ít khu được thành lập. Do đất nước đang trong thời kỳ chiến tranh và những hạn chế về điều kiện kinh tế kỹ thuật nên việc xây dựng, quản lý và bảo vệ các khu nói trên không được tốt.

b. Giai đoạn từ 1976 đến 1986

Sau khi đất nước thống nhất, ngành Lâm nghiệp đã triển khai việc điều tra, phát hiện các khu bảo vệ trên cả nước đặc biệt ở các khu vực Tây Nguyên, Ðông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Các đề án về hệ thống các khu rừng cấm đã lần lượt được đệ trình lên Bộ và Chính phủ.

Ngày 24/1/1977, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ban hành Quyết định Số 41/TTg thành lập 10 Khu Rừng cấm với tổng diện tích 44.310 ha. Những khu này bao gồm: Ba Bể, Ba Mùn, Ba Vì, Bắc Sơn, Bán Ðảo Sơn Trà, Ðền Hùng, Pắc Bó, Rừng Thông Ðà Lạt, Tam Ðảo và Tân Trào.

Tiếp đó thành lập: Khu Bảo tồn Nam Bãi Cát Tiên (1978), Khu Bảo tồn Thiên nhiên Mom Ray (1982), Rừng cấm Côn Ðảo (1984), và Vườn quốc gia Cát Bà (1986).

Ngày 9/8/1986 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định Số 194/CT thành lập thêm 73 Khu Rừng cấm trên toàn quốc với tổng diện tích là 769.512 ha, gồm 2 Vườn quốc gia, 46 Khu Bảo tồn Thiên nhiên và 25 Khu Văn hoá- Lịch sử và Môi trường.

Ngày 30/12/1986, Quy chế quản lý ba loại rừng (trong đó có rừng đặc dụng) được chính thức ban hành theo Quyết định Số1171/QÐ của Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp. Theo Quy chế này Rừng cấm được đổi tên là Rừng đặc dụng và được chia làm 3 phân hạng: Vườn Quốc gia, Khu Bảo tồn Thiên nhiên và Khu Văn hoá- Lịch sử và Môi trường.

Hệ thống Rừng Ðặc dụng Việt Nam ở giai đoạn này đã gồm nhiều khu đại diện cho các đai, đới khí hậu và các đơn vị địa lý sinh học khác nhau phân bố tương đối đồng đều trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.

c. Giai đoạn từ 1987 đến nay

Trên cơ sở Quy chế quản lý thống nhất, sau năm 1990, một loạt các khu mới được Chính phủ quyết định thành lập như: Vườn quốc gia Yok Ðôn (1991), các Khu Bảo tồn Thiên nhiên U Minh Thượng (1993), Xuân Thuỷ, Tràm Chim và Tiền Hải (1994), Tà Kou, Kẻ Gỗ (1996) và Thạnh Phú (1998).

Số khu mới đã nâng tổng số Khu Rừng đặc dụng cả nước lên 93 khu, bao gồm 11 Vườn Quốc gia, 55 Khu Bảo tồn Thiên nhiên và 27 Khu Văn hoá - Lịch sử và Môi trường, với tổng diện tích trên 1 triệu hecta.

Trong giai đoạn này, việc xây dựng Rừng Ðặc dụng được đẩy mạnh nhờ sự quan tâm của các ngành và các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương, được sự cộng tác tích cực của các nhà khoa học trong nước cũng như sự hỗ trợ quốc tế có hiệu quả về khoa học kỹ thuật và vật chất của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ.

Song song với việc tiếp tục điều tra phát hiện thêm các khu mới, công tác xây dựng Luận chứng Kinh tế - Kỹ thuật (nay là Dự án đầu tư) cho các khu đã được công nhận cũng được đẩy mạnh nhằm nhanh chóng cụ thể hoá và tăng cường năng lực quản lý và bảo vệ hệ thống Rừng Ðặc dụng Việt Nam.

Công tác điều tra cơ bản cũng thu được nhiều thành tựu có ý nghĩa khoa học như việc phát hiện và mô tả mới một số loài thú lớn từ năm 1992 - 1996 bao gồm:

- Sao la (Pseudoryx nghetinhensis) năm 1992

- Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis) năm 1993

- Mang Trường sơn (Muntiacus truongsonensis) năm 1996

Việc phát hiện các loài trên đã chứng minh thêm giá trị đa dạng sinh học cao của khu hệ động vật và thực vật Việt Nam và đẩy mạnh hơn sự đầu tư của Chính phủ Việt Nam và các tổ chức quốc tế cho công tác bảo vệ và phát triển hệ thống rừng đặc dụng của nước ta.

Hệ thống các khu bảo vệ của Việt Nam vẫn đang phát triển cả về quy mô và tổ chức. Tuy nhiên mới chỉ có các khu trong hệ thống rừng đặc dụng (chủ yếu trên đất liền và một số rất ít các khu đất ngập nước và ven biển) có quyết định của Chính phủ, các Bộ hoặc Uỷ ban Nhân dân các tỉnh và thành phố. Các Khu Bảo vệ ngoài lâm nghiệp (đất ngập nước và các khu bảo vệ biển) hiện chưa có quyết định.

Hầu hết các Khu Bảo vệ hiện có và đề xuất mới của Việt Nam đều thuộc một trong hai phân hạng chính: các Khu Rừng Ðặc dụng và các Khu Bảo vệ biển.

Bảng 2 thống kê số lượng các Khu Bảo vệ đã có quyết định và các Khu đề xuất ở Việt Nam (sẽ được giới thiệu trong cuốn sách này). Trong đó các Khu Bảo vệ đất ngập nước đã được gộp trong hệ thống các khu Rừng Ðặc dụng và Khu Bảo vệ biển. Tuy nhiên, đang có các đề xuất tách riêng thành các Khu Bảo vệ đất ngập nước.

Bảng 2: Các khu bảo vệ đã được quyết định và đề xuất ở Việt Nam

Phân hạng Quyết định Ðề xuất Tổng
Rừng Ðặc dụng 93 71 164
Khu Bảo vệ biển 0 24 24
Khu Dự trữ Sinh quyển 1 0 1
Tổng 94 95 189


Ngay từ cuối năm 1990 để tăng cường công tác bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam, Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có chủ trương nâng tổng diện tích các khu Rừng Ðặc dụng của Việt Nam lên 2 triệu ha.

Ðể thực hiện chủ trương này, trong hai năm 1977 và 1978, Bộ NN & PTNT đã giao cho Viện Ðiều tra Quy hoạch Rừng phối hợp với Cục Kiểm lâm thực hiện kế hoạch "Ðiều tra đánh giá và quy hoạch mở rộng hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam", tiếp đó hợp tác cùng Tổ chức BirdLife Quốc tế (BirdLife International) thực hiện dự án "Mở rộng hệ thống các khu rừng đặc dụng của Việt Nam cho thế kỷ 21" do Liên minh Châu Âu tài trợ.

Sau Quy chế quản lý ba loại rừng (theo Quyết định Số 1171/QÐ của Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp) hàng loạt các văn bản luật, quyết định, chỉ thị và công văn có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến công tác quản lý Rừng Ðặc dụng nói riêng và Khu Bảo vệ nói chung cũng được nhà nước và ngành ban hành trong giai đoạn này (xem bảng 3).

Bảng 3: Các văn bản pháp quy của Chính phủ và Bộ liên quan đến quản lý bảo vệ Rừng Ðặc dụng

Tên văn bản Ngày ban hành
Quy chế quản lý ba loại rừng (Ðặc dụng, Phòng hộ và Sản xuất) ban hành theo Quyết định Số 1171/QÐ của Bộ trưởng Bộ Lâm Nghiệp 30/12/1986
Luật bảo vệ và phát triển rừng 19/8/1991
Nghị định 18/HÐBT về các loài bị đe doạ và cơ chế quản lý và bảo vệ 17/1/1992
Quyết định 327/CT về sử dụng đất trống, đồi núi trọc, rừng, vùng bãi bồi và mặt nước 15/9/1992
Quyết định 14/CT về sử phạt hành chính trong quản lý và bảo vệ rừng 5/12/1992
Chỉ thị 130/TTg về bảo vệ và quản lý các loài thực vật và động vật quý hiếm 27/3/1993
Luật về môi trường 1993
Quyết định Số 02/CP 5/1/1996
Quyết định Số 77/CP về xử phạt hành chính trong việc bảo vệ và quản lý nguồn tài nguyên rừng 29/11/1996
Chỉ thị 359/TTg về biện pháp khẩn cấp để bảo vệ và phát triển các loài động vật hoang dã 29/5/1996
Công văn Số 2472/NN-KL-CV về tăng cường bảo vệ và phát triển các loài động vật hoang dã 24/7/1996
Quyết định Số 08/2001/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về quản lý Rừng đặc dụng, Rừng phòng hộ, Rừng sản xuất 11/1/2001

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 1997

Ngày 11/01/ 2001, Quy chế mới về quản lý Rừng Ðặc dụng đã được ban hành theo Quyết định Số 08/2001/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Theo Ðiều 6 của Quy chế này, Rừng Ðặc dụng được chia thành ba Phân hạng: 'Vườn Quốc gia', 'Khu Bảo tồn Thiên nhiên' và 'Khu Văn hoá, Lịch sử và Môi trường (các khu bảo vệ cảnh quan)'. Khu Bảo tồn Thiên nhiên được chia thành hai Phân hạng phụ: 'Khu Bảo tồn Thiên nhiên' và 'Khu Bảo tồn loài/sinh cảnh'. Quy chế cũng giao trách nhiệm cho Bộ Văn hoá và Thông tin phối hợp với Bộ NN & PTNT thành lập và quản lý các Khu Văn hoá, Lịch sử và Môi trường.

Ðiều 8 của Quy chế nêu các mục tiêu cơ bản của vùng đệm để nhằm giảm bớt sự xâm phạm' của người dân định cư trong các khu Rừng Ðặc dụng, và chỉ rõ rằng tất cả các hoạt động trong vùng đệm phải hỗ trợ cho công tác bảo tồn, quản lý và bảo vệ Rừng Ðặc dụng. Di cư từ bên ngoài và các hoạt động khai thác bất hợp pháp tài nguyên động thực vật rừng trong vùng lõi và vùng đệm đều bị nghiêm cấm.

Hiện nay khoảng hai phần ba số khu rừng đặc dụng đã có Ban quản lý. Hầu hết Các Ban quản lý Vườn Quốc gia trực thuộc Bộ NN & PTNT, các ban quản lý Khu Bảo tồn Thiên nhiên và Khu Văn hoá, Lịch sử và Môi trường trực thuộc Uỷ ban Nhân dân tỉnh và thành phố.

[ Mục lục gốc | Tiếp theo ]